Số mệnh cuộc đời từng tuổi

Ngày đăng : 16/05/2023 - 11:21 AM

Bài số 1 - ĐOÁN VẬN MẠNG

Tuổi Giáp Tý sanh 1864 và 1924

Giáp Tý cung Chấn, mạng Kim,
Trực Bế để gác đòn dong, thả đòn tay,
Cung Phi dùng cất nhà, xây hướng,
Sanh 1924, cung phi: Nam cung Tốn, Nữ cung Đoài.


Giáp Tý cung Chấn, mạng Kim,
Vàng ở giữa biển thiên niên vững bền.
Sanh đặng mùa Thu mới nên,
Thánh ba, tháng sáu vững bền an thân.
Tháng chạp mạng ta có phần,
Sanh đặng thuận số công thần chức ban..
Sanh mấy tháng khác chẳng an,
Lỗi sanh phải khổ gian nan tư bề.
Số ta biết đặng nhiều nghề,
Duyên đầu lỡ dở thiếp thể đổi đời.
Anh em bạn hữu phản thời,
Giúp đỡ cho họ ăn rồi phụ ơn.
Có hỏi sanh giận sanh hờn,
Ăn rồi quẹt mỏ phủi ơn như gà.
Ly hương tổ quán xứ xa,
Anh em cô bác thời ta không nhờ.
Lỗi sanh phải chịu bơ vơ,
Cực nhọc lo lắng tại giờ sanh ra.
Số ta chết hụt đôi ba,
Lỗi sanh không đức, phải sa ngục hình.
Tu nhân tích đức hiển vinh,
Rủi bị oan ức thiên đình độ cho.
Số tuổi hậu vận ấm no,
Tiền vận làm có của kho không còn.

Tuổi Ất Sửu sanh 1865 và 1925

Ất Sửu cung Tốn, mạng Kim,
Trực Kiên để gác đòn dong, thả đòn tay,
Cung Phi dùng cất nhà, xây hướng,
Sanh 1925, cung phi: Nam cung Chấn, Nữ cung Chấn.


Ất Sửu cung Tốn, mạng Kim,
Vàng ở giữa biển tự nhiên an hòa.
Tháng bảy, tháng tám sanh ra,
Tháng sáu, tháng chạp, tháng ba đặng mùa.
Như cây gặp tuyết nở đua,
Sanh mấy tháng khác như vua sa lầy.
Đặng sanh như rồng lên mây,
Lỗi sanh có của cho đầy cực thân.
Anh em xung khắc chẳng gần,
Người dưng giúp đỡ, thích thân không nhờ.
Vợ chồng kết nghĩa tóc tơ,
Duyên đầu lỡ dở hẩn hờ đôi ba.
Tuổi ta chân chất thật thà,
Làm ơn cho bạn sau mà phản ngay.
Bạc tiền trợ giúp hỏi vay,
Ăn rồi lấy giáo trở tay đâm mình.
Bụng người cũng có tánh linh,
Nghi ai thì có thiệt tình chẳng sai.
Số phải tu niệm ăn chay,
Không thì khổ não bị nay giam cầm.
Nhiều lúc tai nạn âm thầm,
Cũng điều qua khỏi hung trung gặp hiền.
Đặng sanh sau có đất điền,
Lỗi sanh vất vả chẳng yên thân này.

Tuổi Bính Dần sanh 1866 và 1926

Bính Dần cung Khảm, mạng Hỏa,
Trực Định để gác đòn dong, thả đòn tay,
Cung Phi dùng cất nhà, xây hướng,
Sanh 1926, cung phi: Nam cung Khôn, Nữ cung Tốn.


Bính Dần cung Khảm, lửa lò,
Tuổi sanh Xuân, Hạ ấm no thanh nhàn.
Thu Đông sanh gái là nàng,
Lỗi sanh cực nhọc, sanh chàng lo âu.
Lỗi sanh mang giỏ hái dâu,
Cực xác mệt trí điên đầu tằm tơ.
Đặng sanh ăn gnủ có giờ,
Bồi bếp hầu hạ đợi chờ khiến sai.
Bính Dần bất luận gái trai,
Khôn ngoan mưu trí ít ai thiệt thà.
Tuổi Dần lâm vô đàn bà,
Giúp chồng mạng lớn ở mà mới an.
Giận ai muốn tới ăn gan,
Ai quấy biết lỗi, than van dịu liền.
Anh em xung khắc chẳng yên,
Ở chung xích mích đảo điên rày rà.
Xa quê tổ quán ông bà,
Lập nên cơ nghiệp cửa nhà vinh sang.
Có quyền có tước mới an,
Dốt nát phải chịu gian nan thua người.
Hậu vận tuổi trên bốn mươi,
Có của mới tụ, trước thì rả tan.
Thấy ai nghèo khổ thở than,
Bạc tiền giúp đỡ sau toan phản liền.

Tuổi Đinh Mẹo sanh 1867 và 1927

Đinh Mẹo cung Càn, mạng Hỏa,
Trực Chấp để gác đòn dong, thả đòn tay,
Cung Phi dùng cất nhà, xây hướng,
Sanh 1927, cung phi: Nam cung Khảm, Nữ cung Cấn.


Đinh Mẹo mạng Hỏa cung Càn,
Lư nhang là lửa mau tàn nguội ngay.
Giận ai nóng nảy không day,
Ít bửa dịu ngọt hỏi tiền cũng đưa.
Vợ chồng lỡ dở duyên xưa,
Không thời sau gặp duyên thừa mới nên.
Tới đâu thân kẻ bề trên,
Làm bạn phản phúc, họ quên ơn liền.
Thương ai giúp của dùm tiền,
Ăn rồi lấy giáo đâm liền theo tay.
Có tiền vinh mặt vác mày,
Gặp không muốn hỏi, đi ngay ẩn mình.
Bụng người cũng có tánh linh,
Nghi tưởng thì có như đinh đóng vào.
Đặng sanh quyền tước sang giàu,
Lỗi sanh có của tiền hao không còn.
Hậu vận nhờ đặng cháu con,
Tiền vận lao khổ những còn sầu bi.
Tai nạn nhiều lúc hỉem nguy,
Cũng đều qua khỏi nhờ thì ơn trên.
Thần quan tả hữu hai bên,
Độ mang qua khỏi mới nên vững vàng.

Tuổi Mậu Thìn sanh 1868 và 1928

Mậu Thìn cung Đoài, mạng Mộc,
Trực Thâu để gác đòn dong, thả đòn tay,
Cung Phi dùng cất nhà, xây hướng,
Sanh 1928, cung phi: Nam cung Ly, Nữ cung Càn.


Mậu Thìn cung Đoài, Mộc lâm,
Cây lớn rừng núi trăm năm to tàng.
Đông Xuân sanh đặng thời sang,
Mùa Xuân vượng Mộc cũng an đặng mùa.
Xuân vượng cây trái nở đua,
Sanh Thu Mộc khắc như cua gãy càng.
Mùa Hạ Hưu, Tù chẳng an,
Dẫu làm có của muôn ngàn cực thân.
Anh em cô bác chẳng gần,
Người dưng giúp đỡ ân cần độ ta.
Mậu Thìn lâm vô đàn bà,
Gặp chồng mạng lớn phải mà nhịn ngay.
Buổi đầu chồng vợ đổi thay,
Nhiều chỗ nói cưới, ta nay không màng.
Đôi dòng ba thứ mới an,
Một đời phải chịu gian nan tư bề.
Tuổi sanh biết đặng nhiều nghề,
Phiêu lưu xứ khác xa quê ông bà.
Lòng ở nhân đức hải hà,
Ai mà than thở thì ta giúp liền.
Ăn rồi phản phúc tự nhiên,
Thấy ai ngọt dịu có tiền cũng đưa.
Đặng sanh sau có đất điền,
Ruộng vườn mua sắm, của tiền làm ra.

Tuổi Kỷ Tỵ sanh 1869 và 1929

Kỷ Tỵ cung Cấn, mạng Mộc,
Trực Khai để gác đòn dong, thả đòn tay,
Cung Phi dùng cất nhà, xây hướng,
Sanh 1929, cung phi: Nam cung Cấn, Nữ cung Đoài.


Kỷ Tỵ cung Cấn tốt thay,
Mạng Mộc cây lớn mọc ngay giữa rừng.
Sanh đặng Đông Xuân thì mừng,
Có kẻ tưới nước vun chưn lâu tàn.
Hạ, Thu sanh gái là nàng,
Lỗi sanh cực nhọc, sanh chàng khổ thân.
Số ta chết hụt mấy lần,
Quới nhân độ mạng có phần khỏi nguy.
Thợ thầy, quan tước hiệp nghi,
Không thôi vất vả chịu thì linh đinh.
Tuổi ta sáng láng thông minh,
Thấy thì làm đặng thiệt tình chẳng sai.
Chơi bạn thì bạn phản hoài,
Anh em xung khắc gặp hay rầy rà.
Giận ai nói rồi bỏ qua,
Không lòng cố chấp, giận mà không lâu.
Ai mà túng thiếu khẩn cầu,
Bạc tiền trợ giúp ta đâu chối từ.
Tiền vận chưa biết nên hư,
Hậu vận mới khá của dư có xài.
Lòng ở ngay thẳng mới hay,
Phật Trời dòm ngó có ngày làm nên.
Thần quan tả hữu hai bên,
Ai ở ác đức biên tên nạp liền.

Tuổi Canh Ngọ sanh 1870 và 1930

Canh Ngọ cung Ly, mạng Thổ,
Trực Mãn để gác đòn dong, thả đòn tay,
Cung Phi dùng cất nhà, xây hướng,
Sanh 1930, cung phi: Nam cung Đoài, Nữ cung Cấn.


Canh Ngọ cung Ly rõ ràng,
Đất ở đường lộ muôn ngàn người đi.
Tuổi sanh mùa Hạ lo chi,
Tháng chạp, tháng chín cùng thì tháng ba.
Đặng sanh sáu tháng an hòa,
Tổ phụ tích đức sau ta sang giàu.
Thu, Đông phải chịu lao lao,
Mùa Xuân Dần, Mẹo biết bao khổ rày.
Sanh kỵ tháng Giêng, tháng Hai,
Nặng hơn mấy tháng khổ rày cực thân.
Vợ chồng không phải một lần,
Duyên đầu lỡ dở tơ hồng xe lơi.
Vợ chồng đôi thứ ba đời,
Canh Ngọ sang số ít thời một nơi.
Tuổi ta nhờ phước Phật Trời,
Không thời chết hụt rồi đời đã xong.
Sanh ra thuở nhỏ long đong,
Hai tên, hai thứ, hai dòng mới an.
Ai nói thiết yếu thở than,
Bạc tiền trợ giúp họ toan phản liền.
Đặng sanh tạo mãi đất điền,
Lỗi sanh khổ não như thuyền linh đinh.
Tuổi ta sáng dạ thông minh,
Quyền tước, thầy thợ, trào đình chẳng sai.

Tuổi Tân Mùi sanh 1871 và 1931

Tân Mùi cung Khảm, mạng Thổ,
Trực Bình để gác đòn dong, thả đòn tay,
Cung Phi dùng cất nhà, xây hướng,
Sanh 1931, cung phi: Nam cung Càn, Nữ cung Ly.


Tân Mùi cung Khảm, Bắc phương,
Đất ở đường lộ thường thường người đi.
Sanh đặng mùa Hạ lo chi,
Tháng chạp, tháng chín không thì tháng ba.
Thổ vượng tứ quí nhưng là,
Sanh đặng sáu tháng ai mà dám đương.
Tân Mùi tâm tánh hiền lương,
Giận ai làm dữ, nghĩ thương lại người.
Tháng giêng, tháng hai lỗi thời,
Bị Mộc khắc Thổ cực đời số ta.
Anh em xung khắc chẳng hòa,
Ở gàn gây gổ, đi xa nhớ liền.
Làm bạn họ phản tự nhiên,
Đã biết phản phúc có tiền cũng đưa.
Tình duyên trắc trở chẳng vừa,
Lần đầu sơ khơi kén lừa đôi ba.
Số tuổi cách trở mẹ cha,
Ly hương tổ quán sau mà mới nên.
Trước khi có của chẳng bền
Ngày sau mới khá trở nên vững vàng.
Thầy thợ, quyền tước mới an,
Binh lính, thượng hạ sĩ quan văn thần.
Đặng sanh sang cả tấm thân,
Lỗi sanh bồi bếp dọn bàn nấu ăn.

Tuổi Nhâm Thân sanh 1872 và 1932

Nhâm Thân cung Khôn, mạng Kim,
Trực Nguy để gác đòn dong, thả đòn tay,
Cung Phi dùng cất nhà, xây hướng,
Sanh 1932, cung phi: Nam cung Khôn, Nữ cung Khảm.


Nhâm Thân cung Khôn, mạng Kim,
Vàng ở cây kiếm ít người tìm ra.
Tháng chạp, tháng sáu, tháng ba,
Mùa Thu tươi tốt sanh ta đặng mùa.
Đặng sanh có kẻ rước đưa,
Ăn trên ngồi trước, bẩm thưa đón chào.
Lỗi sanh cực khổ biết bao,
Tay bùn, chân lấm, mắt hòa mồ hôi.
Duyên tình trước cũng lôi thôi,
Nhiều chỗ gắm ghé than ôi lỡ làng.
Có kẻ phu quới giàu sang,
Nhiều người vất vả lang thang thiếu gì.
Anh em xung khắc nhiều khi,
Nói ra gây gổ, giận thì long đong.
Cha mẹ, anh em hai dòng,
Không thì duyên nợ lòng thòng đôi ba.
Ly hương tổ quán ông bà,
Số phải học tập ở xa nước ngoài.
Ba mươi bạo phát lợi tài,
Khỏi bị tan rả, họa tai chẳng hiền.
Số tuổi sau có đất điền,
Ruộng vườn mua sắm ,của tiền làm ra.
Lập nghiệp ở nơi xứ xa,
Thành thị chẳng tốt, ở mà thôn quê.

Tuổi Quí Dậu sanh 1873 và 1933

Quý Dậu cung Chấn, mạng Kim,
Trực Thành để gác đòn dong, thả đòn tay,
Cung Phi dùng cất nhà, xây hướng,
Sanh 1933, cung phi: Nam cung Tốn, Nữ cung Khôn.


Quý Dậu cung Chấn, mạng Kim,
Vàng trong cây kiếm ráng tìm giàu sang.
Bất luận nam nữ gái trai,
Mùa Thu sanh đẻ đố ai dám bì.
Tháng tư, tháng năm phải nguy,
Kim bị Hỏa khắc, cực thì khổ thân.
Đặng sanh sáng suốt tinh thần,
Lốianh tật bệnh mười phần chẳng an.
Nhân đức như thể Lưu Bang,
Tàn bạo như Hạng, Ô giang bỏ mình.
Quí Dậu nhiều kẻ hiền lành,
Ít ai ở dữ, gian manh bạo tàn.
Hậu vạn có của mới an,
Tiền vận làm có, rả tan chẳng còn.
Hai dòng cha mẹ mới an,
Không thì chồng vợ khó toan một đời.
Trung niên nay đổi mai dời,
Ai mà có chí khỏi thời long đong.
Sanh ra đặng gái đầu lòng,
Làm ăn mới khá tại trong tuổi này.
Anh em xung khắc hay rầy,
Cô bác có của, ta đây không màng.
Có lúc phải chịu hàm oan,
Ở mà nhân đức tai nàn cũng qua.

Tuổi Giáp Tuất sanh 1874 và 1934

Giáp Tuất cung Càn, mạng Hỏa,
Trực Kiên để gác đòn dong, thả đòn tay,
Cung Phi dùng cất nhà, xây hướng,
Sanh 1934, cung phi: Nam cung Chấn, Nữ cung Chấn.


Giáp Tuất mạng Hỏa, cung Càn,
Lửa ở đầu núi rõ ràng sáng trưng.
Xuân Hạ đặng sanh thời mừng,
Lao khổ gặp lúc ta đừng có than.
Có phước thi đặng làm quan,
Giàu nghèo cũng sướng thanh nhàn có khi.
Sanh gặp Thu Đông phải nguy,
Giàu có cũng cực, nghèo thì bơ vơ.
Lỗi sanh ác đức, trật giờ,
Ngao du thành thị đợi chờ khách sang.
Tuổi sanh thuở nhỏ chẳng an,
Tật bệnh đau ốm khó toan nuôi rày.
Tâm tánh sáng dạ rất hay,
Thấy thì làm đặng ít ai dám bì.
Vợ chồng lỡ dở trước khi,
Nhiều nơi gấm ghé vậy thì bỏ qua.
Số người cách trở mẹ cha,
Nội ngoại không thấy, ông bà đôi bên.
Giáp Tuất có chí làm nên,
Quyền tước, thầy thợ vững bền an thân.
Anh em xung khắc chẳng gần,
Nói ra gây gổ nhiều lần chẳng an.
Ở đặng chứa đức giàu sang,
Ở không ngay thẳng, đưa sang ngục hình.

Tuổi Ất Hợi sanh 1875 và 1935

Ất Hợi cung Đoài, mạng Hỏa,
Trực Trừ để gác đòn dong, thả đòn tay,
Cung Phi dùng cất nhà, xây hướng,
Sanh 1935, cung phi: Nam cung Khôn, Nữ cung Tốn.


Ất Hợi mạng Hỏa, cung Đoài,
Lửa ở đầu núi sáng bay đỏ trời.
Tuổi sanh Xuân Hạ gặp thời,
Giàu nghèo cũng sướng an nơi thanh nhàn.
Thu Đông sanh gái là nàng,
Sanh trai cũng lỗi lỡ làng chẳng yên.
Ất Hợi nhiều kẻ lòng hiền,
Ai mà ở dữ, mang xiềng khổ thân.
Anh em xung khắc chẳng gần,
Nói ra gây gổ, sượng sần mắng ta.
Lớn lên cách trở xứ xa,
Học tập nghề nghiệp sau mà mới nên.
Đầu tiên cầm của chẳng bền,
Làm có hao tán như tên mây hồng.
Tuổi muộn giàu có an thân,
Sớm lập gia thất nhiều lần chẳng nên.
Kết làm bạn hữu chẳng bền,
Ăn rồi phản phúc họ quên ơn liền.
Vợ chồng đôi thứ mới yên,
Duyên tình lỡ dở tự nhiên lần đầu.
Tuổi ta nóng nảy không lâu,
Giận ai nói dữ lần đầu sau êm.
Bốn mươi sắp tới trở lên,
Làm ăn có của vững bền đặng lâu.

Tuổi Bính Tý sanh 1876 và 1936

Bính Tý cung Cấn, mạng Thủy,
Trực Thành để gác đòn dong, thả đòn tay,
Cung Phi dùng cất nhà, xây hướng,
Sanh 1936, cung phi: Nam cung Khảm, Nữ cung Cấn.


Bính Tý cung Cấn sanh ra,
Mạng Thủy là nước giang hà sông Ngân.
Tuổi sanh đặng mùa Thu Đông,
Có kẻ tưới nước vun trồng cho ta.
Tuổi nhỏ chớ khá bôn ba,
Sanh đặng Vượng Tướng thời ta có phần.
Xuân Hạ lỗi số cực thân,
Hai mùa sanh đẻ phong trần lao đao.
Tánh ở rộng rãi biết bao,
Có tiền ai hỏi cũng trao đưa liền.
Ăn rồi phản phúc tự nhiên,
Đòi thời không trả, mắng liền tới ta.
Anh em xung khắc chẳng hòa,
Đi xa thương nhớ, gần mà chẳng an.
Bính Tý nam nữ cũng sang,
Duyên tình lỡ dở chẳng an một đời.
Đầu tiên trắc trở lôi thôi,
Coi nói nhiều chỗ, lần hồi bỏ qua.
Cách trở phụ mẫu ông bà,
Ly hương tổ quán học mà mới nên.
Chức quyền, thầy thợ vững bền,
Văn võ quan tước có tên sau này.
Lỗi sanh có của cho đầy,
Thân nhàn tâm khổ lo ngày lo đêm.

Tuổi Đinh Sửu sanh 1877 và 1937

Đinh Sửu cung Ly, mạng Thủy,
Trực Thâu để gác đòn dong, thả đòn tay,
Cung Phi dùng cất nhà, xây hướng,
Sanh 1937, cung phi: Nam cung Ly, Nữ cung Càn.


Đinh Sửu mạng Thủy, cung Ly,
Giang hà nước chảy li bì giao thông.
Nam nữ sanh đặng Thu Đông,
Giàu nghèo cũng sướng ở không chơi hoài.
Sanh nhằm Xuân Hạ lỗi ngay,
Đầu đội, tay xách, vác cày lùa trâu.
Có kẻ đặng ở nhà lầu.
Có người mạt kiếp đứng hầu người sang.
Kiếp trước ở ác chớ than,
Biết khổ ở phải, thanh nhàn có khi.
Sanh ra nhiều lúc hiểm nguy,
Tưởng chết thuở nhỏ hồi thì mới sanh.
Thợ thầy, quyền tước công danh,
Không thì binh lính mới đành số ta.
Tuổi người tánh nết thiệt thà,
Giận ai thách đố, ta mà khó dung.
Anh em cha mẹ hai dòng,
Không thì chồng vợ lòng thòng đôi ba.
Đầu tiên làm có của ra,
Đôi ba lần khá hiệp mà cũng tan.
Hậu vận cầm của mới an,
Lập nên nhà cửa thanh nhàn tấm thân.
Số ta chết hụt mấy lần,
Trước có, sau khỏi, mười phần chẳng sai.

Tuổi Mậu Dần sanh 1878 và 1938

Mậu Dần cung Khảm, mạng Thổ,
Trực Khai để gác đòn dong, thả đòn tay,
Cung Phi dùng cất nhà, xây hướng,
Sanh 1938, cung phi: Nam cung Cấn, Nữ cung Đoài.


Mậu Dần cung Khảm đã đành,
Mạng Thổ đất ở đầu thành đền vua.
Thổ Vượng tứ quí bốn mùa,
Mùa Hạ sanh đặng không thua tiên, rồng.
Nam nữ sanh ra cũng đồng,
Mùa Xuân lỗi số chớ trông thanh nhàn.
Vợ chồng lỡ dở chẳng an,
Nhiều chỗ gắm ghé lỡ làng nợ duyên.
Anh em xung khắc chẳng yên,
Nói ra gây gổ tự nhiên rầy hoài.
Mậu Dần sang số quá tay,
Trai đòi ba vợ, gái thay đổi chồng.
Ít ai ở đặng một đời,
Gặp chồng mạng lớn phải thời nhịn ngay.
Chức quyền, thầy thợ mới hay,
Ly hương tổ quán cách nay ông bà.
Thấy ai năn nỉ xót xa,
Bạc tiền trợ giúp sau mà phản ngay.
Làm ăn tiền bạc có hoài,
Tuổi nhỏ chưa tụ, khiến rày phải tan.
Tuổi muộn cầm của mới an,
Lập nên cơ nghiệp giàu sang lo gì.
Ở có nhân đức lo chi,
Ở mà tàn ác sau thì khổ thân.

Tuổi Kỷ Mẹo sanh 1879 và 1939

Kỷ Mẹo cung Khôn, mạng Thổ,
Trực Bế để gác đòn dong, thả đòn tay,
Cung Phi dùng cất nhà, xây hướng,
Sanh 1939, cung phi: Nam cung Đoài, Nữ cung Cấn.


Kỷ Mẹo mạng Thổ, cung Khôn,
Đầu thành đất ở họ đồn khô khan.
Sanh đặng mùa Hạ an nhàn,
Có kẻ hầu hạ, xóm làng rước đưa.
Đặng sanh tiếp đãi dạ thưa,
Hiển vinh một cách có thừa chẳng sai.
Mùa Xuân lỗi số đắng cay,
Mồ hôi nước mắt chảy ngay ròng ròng.
Hai mùa Thu Đông chẳng xong,
Sanh ra cũng lỗi long đong cực hoài.
Tuổi ta sáng láng quá tay,
Không học là uổng, ít ai dám bì.
Vợ chồng lỡ dỡ trước khi,
Nhiều chỗ gắm ghé cũng thì không xong.
Anh em cha mẹ hai dòng,
Không thì chồng vợ đèo bồng đôi ba.
Thấy ai năn nỉ xót xa,
Bạc tiền sẵn có móc ra đưa liền.
Ăn rồi phản phúc nhãn tiền,
Ơn đâu không thấy, oán liền theo ta.
Tiền vận tiền bạc có hoài,
Nhiều lần đặng khá khiến rày rả tan.
Hậu vận có của mới an,
Lập nên nhà cửa vững vàng qui mô.

Tuổi Canh Thìn sanh 1880 và 1940

Canh Thìn cung Chấn, mạng Kim,
Trực Bình để gác đòn dong, thả đòn tay,
Cung Phi dùng cất nhà, xây hướng,
Sanh 1940, cung phi: Nam cung Càn, Nữ cung Ly


Canh Thìn cung Chấn, mạng Kim,
Vàng trắng trong sáp đi tìm khó ra.
Mùa Thu sanh đặng tuổi ta,
Tháng sáu, tháng chạp, tháng ba đặng mùa.
Đông Xuân cũng chẳng ăn thua,
Tỵ Ngọ Hỏa khắc như cua gãy càng.
Lỗi sanh học đặng làm quan,
Lo nhà, lo nước chẳng an đêm ngày.
Nghèo thì cực khổ quá tay,
Cơm không no bụng, gặp ai xá liền.
Anh em xung khắc chẳng yên,
Nói ra gây dữ, tự nhiên chẳng hòa.
Tuổi lớn lập nghiệp xứ xa,
Cô bác có của thì ta không nhờ.
Chữ Canh, chữ Mậu bơ vơ,
Tại sanh lỗi số trật giờ khổ thân.
Đặng sanh sung sướng mười phần,
Lòng ở ngay thẳng, thánh thần độ cho.
Ba mươi làm có của kho,
Giữ cũng chẳng đặng, khiến cho rả rời.
Bốn mươi sắp tới an nơi,
Lập nên nhà cửa ở thời an thân.
Lòng ở có đức có nhân,
Để sau con cháu hưởng phần hậu lai.

Tuổi Tân Tỵ sanh 1881 1941

Tân Tỵ cung Tốn, mạng Kim,
Trực Định để gác đòn dong, thả đòn tay,
Cung Phi dùng cất nhà, xây hướng,
Sanh 1941, cung phi: Nam cung Khôn, Nữ cung Khảm.


Tân Tỵ cung Tốn, mạng Kim,
Vàng ở trong sáp rán tìm có ngay.
Mùa Thu mà đặng sanh thai,
Thổ Vượng tứ quí ít ai dám bì.
Lâm nạn có người giải nguy,
Giàu nghèo cũng sướng sau thì an thân.
Mùa Hạ sanh ra khổ bần,
Đông Xuân cũng lỗi chịu phần gian nan.
Đặng sanh trúng tuổi là chàng,
Hiền lương quân tử sanh nàng tiểu thơ.
Tuổi sanh lỗi số sai giờ,
Vét mương, phát cỏ, đắp bờ, nám da.
Lỗi mùa sanh ra đàn bà,
Vai mang, tay xách, heo gà réo kêu.
Ở cho biết phải biết điều,
Lòng ngay, dạ thẳng ít nhiều có ăn.
Duyên tình lỡ dở líu lăng,
Đôi nơi gắm ghé nói năng lỡ làng.
Nghề nghiệp quyền tước mới an,
Giáo sư, cai tổng, không quan cũng thầy.
Chết hụt té nước, té cây,
Phật Trời độ mạng bỏ thây đã rồi.
Tiền vận có của lôi thôi,
Hậu vận dăng khá an nơi cửa nhà.

Tuổi Nhâm Ngọ sanh 1882 và 1942

Nhâm Ngọ cung Ly, mạng Mộc,
Trực Bế để gác đòn dong, thả đòn tay,
Cung Phi dùng cất nhà, xây hướng,
Sanh 1942, cung phi: Nam cung Tốn, Nữ cung Khôn.


Nhâm Ngọ mạng Mộc, cung Ly,
Là cây dương liễu ai thì dám đương,
Đông Xuân sanh ta có đường,
Trai đặng quan tước, gái dường tiểu thơ.
Mùa Thu bị khắc bơ vơ,
Mùa Hạ cũng lỗi trật giờ khổ thân.
Anh em xung khắc chẳng gần,
Đi xa thương nhớ, lại gần chẳng an.
Sanh ra thuở nhỏ gian nan,
Tưởng đâu chết hụt, chết oan đã rồi.
Cây khô mà đặng mọc chồi,
Tưởng đâu âm phủ đòi rồi chẳng sai.
Rán học thi đậu Tú tài,
Ai mà biếng nhác vác cày lùa trâu.
Siêng năng sau đặng công hầu.
Nam Nhâm, nữ Quí đứng đầu Thiên can.
Tuổi ta lanh lợi khôn ngoan,
Ít kẻ ngu dốt cơ hàn linh đinh.
Bụng người cũng có tánh linh,
Nghi gì thì có thiệt tình chẳng sai.
Trung niên làm có đủ xài
Nhiều lần đặng khá, khiến rày cũng tan.
Tuổi muộn có của mới an,
Lập nên sự nghiệp thanh nhàn đủ no.

Tuổi Quý Mùi sanh 1883 và 1943

Quý Mùi cung Càn, mạng Mộc,
Trực Kiên để gác đòn dong, thả đòn tay,
Cung Phi dùng cất nhà, xây hướng,
Sanh 1943, cung phi: Nam cung Chấn, Nữ cung Chấn.


Quý Mùi mạng Mộc, cung Càn,
Là cây dương liễu ra tàng chỉ thiên.
Sanh đặng tháng hai, tháng giêng,
Mùa Đông cũng tốt, tự nhiên thanh nhàn.
Hạ Thu sanh gái là nàng,
Lỗi sanh khổ não, sanh chàng cực thân.
Anh em xung khắc chẳng gần,
Nói ra gây gổ nhiều lần chẳng an.
Đặng sanh sung sướng giàu sang,
Lỗi sanh có của rả tan lo hoài.
Tuổi ta lòng dạ thẳng ngay,
Nhỏ thời gian xảo, lớn rày không tham.
Anh em cha mẹ hai dòng,
Không thì chồng vợ lòng thòng đôi ba.
Ly hương tổ quán ông bà,
Xứ xa lập nghiệp cửa nhà làm nên.
Trung niên có của chẳng bền,
Đôi ba lần khá như tên mây hồng.
Tuổi ta có tánh lạc lòng,
Bạc tiền giúp họ, hễ xong phản liền.
Số tuổi sau có đất điền,
Ruộng vườn mua sắm của tiền làm ra.
Tuổi nhỏ chớ khá bôn ba,
Mua cất nhiều lớp cửa nhà chẳng nên.

Tuổi Giáp Thân sanh 1884 và 1944

Giáp Thân cung Khôn, mạng Thủy,
Trực Định để gác đòn dong, thả đòn tay,
Cung Phi dùng cất nhà, xây hướng,
Sanh 1944, cung phi: Nam cung Khôn, Nữ cung Tốn.


Giáp Thân mạng Thủy, cung Khôn,
Nước ở giữa suối họ đồn chẳng sai.
Thu, Đông nam nữ gái trai,
Giàu nghèo cũng sướng sanh thai đặng mùa.
Xuân, Hạ sanh ra lỗi mùa,
Như cây rụng lá, như cua gãy càng.
Lỗi sanh vất vả bần hàn,
Không ai nương dựa ngó ngàng đến ta.
Anh em xung khắc chẳng hòa,
Ở gần gây dữ, đi xa nhớ hoài.
Lỗi sanh ăn ở thẳng ngay,
Phật Trời phò hộ có ngày đặng an.
Tuổi sanh thuở nhỏ gian nan,
Tưởng đâu chết hụt, chết oan đã rồi.
Cây khô mà đặng ra chồi,
Tướng mạng lớn lắm không thời đã xong.
Anh em cha mẹ hai dòng,
Không thời chồng vợ lòng thòng đôi nơi.
Tuổi ta có lúc thảnh thơi,
Mệt về tâm trí khỏi thời cực thân.
Tiền bạc làm vô nhiều lần,
Nếu mà giữ đặng có phần giàu sang.
Trung vận có của rả tan,
Hậu vận cầm đặng ở an lâu dài.

Tuổi Ất Dậu sanh 1885 và 1945

Ất Dậu cung Chấn, mạng Thủy,
Trực Chấp để gác đòn dong, thả đòn tay,
Cung Phi dùng cất nhà, xây hướng,
Sanh 1945, cung phi: Nam cung Khảm, Nữ cung Cấn.


Ất Dậu cung Chấn, Đông phương,
Mạng Thủy nước suối chảy thường liên miên.
Thu, Đông sanh đặng thời yên,
Nam nữ cũng sướng như tiên hạ trần.
Xuân, Hạ lỗi số cực thân,
Có phước làm đặng công thần chẳng an.
Trung niên có của rả tan,
Lo lắng bươn chãi chẳng nhàn đặng đâu.
Lập nên nhà cửa, bò trâu,
Cũng không giữ đặng bao lâu rả rời.
Hậu vận mới đặng thảnh thơi,
Gia tài sự nghiệp có thời mới nên.
Tới đâu thân kẻ bề trên,
Kết làm bạn hữu chẳng bền phản ngay.
Bạc tiền đưa ra cho ai,
Đòi họ không trả, mắng nay mà trừ.
Ai hỏi ta có tiền dư,
Hồi đầu từ chối, sau ừ cũng đưa.
Tánh người thiên hạ biết thừa,
Tới hỏi năn nỉ cũng đưa mượn hoài.
Số tuổi tu niệm ăn chay,
Lòng ở rộng rãi ít ai dám bì.
Nhiều lúc tai nạn hiểm nguy.
Cũng đều qua khỏi vậy thì không sau.

Tuổi Bính Tuất sanh 1886 và 1946

Bính Tuất cung Tốn, mạng Thổ,
Trực Phá để gác đòn dong, thả đòn tay,
Cung Phi dùng cất nhà, xây hướng,
Sanh 1946, cung phi: Nam cung Ly, Nữ cung Càn.


Bính Tuất cung Tốn sanh ra,
Mạng Thổ là đất nóc nhà ở an.
Sanh gặp mùa Hạ đặng sang,
Nam nữ cũng tốt thanh nhàn lo chi.
Thìn, Tuất, Sửu, Mùi khỏi nguy.
Sanh bốn tháng đó sau thì an thân.
Mùa Xuân sanh bị khổ bần,
Thu, Đông cũng lỗi mười phần gian nan.
Lỗi sanh cực nhọc thở than,
Đặng sanh phú quới vinh vang như người.
Luận qua tâm tánh ở đời,
Thấy ai nghèo khó hỏi thời giúp cho.
Ăn rồi mà chẳng biết lo,
Ơn nghĩa không thấy, trả cho oán thù.
Lòng dạ không phải dốt ngu,
Thương người phải chịu, không thù giận ai.
Số tuổi lòng dạ thẳng ngay,
Rủi gặp tai nạn cũng may khỏi liền.
Vợ chồng trước phải lỡ duyên,
Đôi chỗ nói cưới đầu tiên bất thành.
Chữ Giáp, chữ Mậu, chữ Canh,
Nam nhân chữ Bính, công danh tước quyền.
Nữ nhân gặp tuổi chẳng hiền,
Gặp chồng mạng nhỏ nói liền nghe theo.

Tuổi Đinh Hợi sanh 1887 và 1947

Đinh Hợi cung Cấn, mạng Thổ,
Trực Nguy để gác đòn dong, thả đòn tay,
Cung Phi dùng cất nhà, xây hướng,
Sanh 1947, cung phi: Nam cung Cấn, Nữ cung Đoài.


Đinh Hợi cung Cấn tốt thay,
Đất ở dưới thấp bò ngay nóc nhà.
Số tuổi mùa Hạ sanh ra,
Sau đặng sung sướng người ta kính vì.
Thổ Vượng tứ quí lo chi,
Tháng chín, tháng chạp cùng thì tháng ba.
Mùa Xuân, Mộc khắc sanh ra,
Thu, Đông cũng lỗi số ta cực hoài.
Đinh Hợi nam nữ gái trai,
Hiền lành ngay thẳng ít ai bạo tàn.
Số phải chết hụt, chết oan,
Không thì tật bệnh chẳng an sau này.
Nghề nghiệp quyền tước, thợ thầy,
Lòng dạ linh tánh nghi gì chẳng sai.
Làm ơn cho bạn phản ngay,
Biết người đó xảo, hỏi hoài cũng đưa.
Vợ chồng lỡ dở duyên xưa,
Không thời sau gặp duyên thừa mới nên.
Cậu, dì, cô, bác đôi bên,
Thấy ta lui tới, xuống lên ẩn liền.
Thấy nghèo sợ tới mượn tiền,
Phải chi giàu có rước liền mời ngay.
Số tuổi hậu vận khá rày,
Lập nên gia thất tự tay mình làm.

Tuổi Mậu Tý sanh 1888 và 1948

Mậu Tý cung Càn, mạng Hỏa,
Trực Mãn để gác đòn dong, thả đòn tay,
Cung Phi dùng cất nhà, xây hướng,
Sanh 1948, cung phi: Nam cung Đoài, Nữ cung Cấn.


Mậu Tý mạng Hỏa, cung Càn,
Lửa trời chớp nhoáng có đàng sáng trưng.
Sanh nhằm hai mùa Hạ, Xuân,
Cha mẹ vui vẻ đặng mừng cho con.
Thu, Đông bị khắc hao mòn,
Lo thầy chạy thuốc sanh con lỗi mùa.
Sống đây phước lớn chẳng vừa,
Nhờ ơn Trời Phật sống thừa là may.
Số phải tu niệm ăn chay,
Ở mà ác đức sa ngay ngục hình.
Luận qua chồng vợ duyên tình,
Đầu tiên lỡ dở bất bình nhiều nơi.
Đặng sanh sung sướng hơn người,
Lỗi sanh vất vả vậy thời linh đinh.
Bụng người cũng có tánh linh,
Nghi ai thời có thiệt tình chẳng sai.
Tưởng mình lòng dạ như ai,
Bạc tiền trợ giúp sau ngày phản ta.
Ăn rồi quẹt mỏ như gà,
Đòi thì không trả, gây mà giựt luôn.
Tiền vận làm có bạc muôn,
Giữ cũng chẳng đặng luông tuồng quá tay.
Số tuổi hậu vận khá ngay,
Lập nên gia thất ở nay lâu dài.

Tuổi Kỷ Sửu sanh 1889 và 1949

Kỷ Sửu cung Đoài, mạng Hỏa,
Trực Bình để gác đòn dong, thả đòn tay,
Cung Phi dùng cất nhà, xây hướng,
Sanh 1949, cung phi: Nam cung Đoài, Nữ cung Cấn.


Kỷ Sửu mạng Hỏa cung Đoài,
Lửa trời chớp nhoáng sáng rày cũng tan.
Sanh nhằm Xuân, Hạ mới sang,
Nghèo giàu cũng sướng an nhàn tấm thân.
Thu, Đông làm đặng công thần,
Lo nhà, lo nước, lo dân đêm ngày.
Tuổi ta có tánh thày lay,
Ai tới cậy mượn hỏi vay cho người.
Lấy đặng hỉ hả vui tươi,
Sau đòi không trả, giận thời tới ta.
Anh em nghịch ý chẳng hòa,
Lại gần gây gổ, đi xa nhớ rày.
Lòng dạ ăn ở thẳng ngay,
Nhiều lúc tai nạn khiến may khỏi liền.
Số tuổi sau có đất điền,
Ruộng vườn mua sắm của tiền làm ra.
Thân tộc rân rác phú gia,
Cô bác giàu có hỏi mà đặng đâu.
Làm ăn người dưng đỡ đầu,
Thân tộc vay hỏi ta đâu có màng.
Đầu tiên nhiều lúc gian nan,
Làm ăn có của, rả tan hết liền.
Hậu vận làm có ở yên,
Lập nên cơ nghiệp có tiền của dư.

Tuổi Canh Dần sanh 1890 và 1950

Canh Dần cung Cấn, mạng Mộc,
Trực Nguy để gác đòn dong, thả đòn tay,
Cung Phi dùng cất nhà, xây hướng,
Sanh 1950, cung phi: Nam cung Khôn, Nữ cung Khảm.


Canh Dần cung Cấn quí thay,
Mạng Mộc tòng bá ít ai dám bì.
Đông, Xuân sanh đặng lo chi,
Tuổi gặp sung sướng ít khi khổ nghèo.
Hạ, Thu lỗi số cheo leo,
Kẻ giàu mệt trí, người nghèo khổ thân.
Nam nữ sanh tuổi cũng đồng,
Canh Dần sang số vợ chồng đôi ba.
Thiên đình cứu mạng dung tha,
Tưởng đâu âm phủ đòi ta đi rồi.
Đặng sanh sang trọng vô hồi,
Có người sai khiến, có bồi nấu ăn.
Lỗi sanh như thể nhện giăng,
Miệng thì ói chỉ, tay phăng cẳng đùa.
Anh em xung khắc chẳng ưa,
Nói ra gây dữ mắng bừa tới ta.
Tuổi này lâm vô đàn bà,
Gặp chồng mạng nhỏ phải mà nhịn ngay.
Tánh tình ăn ở chẳng ngay,
Ỷ mạnh hiếp yếu ta nay binh liền.
Gặp ai thách đố chẳng kiên,
Giận quá mất trí như điên sợ gì.
Trung niên nhiều lúc hàn vi,
Tuổi muộn đặng khá nói y như lời.

Tuổi Tân Mẹo sanh 1891 và 1951

Tân Mẹo cung Ly, mạng Mộc,
Trực Thành để gác đòn dong, thả đòn tay,
Cung Phi dùng cất nhà, xây hướng,
Sanh 1951, cung phi: Nam cung Tốn, Nữ cung Khôn.


Tân Mẹo mạng Mộc, cung Ly,
Là cây tòng bá ai bì mạng ta.
Đông, Xuân hai mùa sanh ra,
Cây trái đua nở mẹ cha vui mừng.
Hạ, Thu lo lắng quá chừng,
Hưu Tù xung khắc vị chưng lỗi mùa.
Lỗi sanh mà đặng làm vua,
Bị giặc vây khổn chịu thua hàng đầu.
Đặng sanh như ở nhà lầu,
Lỗi sanh như thể cây cầu bắc ngang.
Giận ai muốn tới ăn gan,
Gặp người biết lỗi than van dịu liền.
Tuổi Mẹo nam nữ cũng hiền,
Thấy ai ngọt dịu có tiền cũng đưa.
Vợ chồng lỡ dở duyên xưa,
Nhiều chỗ nói cưới chẳng vừa ý ta.
Anh em xung khắc chẳng hòa,
Ở gần gây lộn, đi xa nhớ rày.
Số tuổi chết hụt có ngày,
Nhờ Trời Phật độ ngày nay mới còn.
Nhân nghĩa phước đức giữ tròn,
Tham tài ở ác hao mòn chẳng sai.
Số ta hậu vận khá rày,
Tiền vận làm có phủi tay hết liền.

Tuổi Nhâm Thìn sanh 1892 và 1952

Nhâm Thìn cung Khảm, mạng Thủy,
Trực Kiên để gác đòn dong, thả đòn tay,
Cung Phi dùng cất nhà, xây hướng,
Sanh 1952, cung phi: Nam cung Chấn, Nữ cung Chấn.


Nhâm Thân cung Khảm tốt thay,
Trường lưu mạng Thủy chảy hoài luôn luôn.
Xuân, Hạ lỗi sanh phải buồn,
Giàu có mệt trí thức luôn đêm ngày.
Thu, Đông ta đặng sanh thai,
Như rồng đùa giỡn nhướng mày phun châu.
Nam nhân chữ Nhâm đứng đầu,
Nữ nhân là gái chẳng hầu nhịn ai.
Số tuổi quyền tước chẳng sai,
Có chí sau đặng có ngày làm nên.
Tới đâu thân kẻ bề trên,
Anh em xung khắc chẳng nên ở gần.
Vợ chồng không phải một lần,
Đôi dòng ba thứ tại phần số ta.
Ly hương tổ quán ông bà,
Xứ xa lập nghiệp cửa nhà đặng an.
Số ta chết hụt, chết oan,
Nhờ Trời Phật độ mới toàn thây thi.
Nhiều lúc tai nạn hiểm nguy,
Cũng đều qua khỏi vậy thì không sao.
Giận ai nói dữ hùng hào,
Nóng như lửa cháy đổ vào dầu hôi.
Biết quấy năn nỉ thì thôi,
Giận thì nói dữ hết rồi bỏ qua.

Tuổi Quý Tỵ sanh 1893 và 1953

Quý Tỵ cung Khôn, mạng Thủy,
Trực Trừ để gác đòn dong, thả đòn tay,
Cung Phi dùng cất nhà, xây hướng,
Sanh 1953, cung phi: Nam cung Khôn, Nữ cung Tốn.


Quý Tỵ cung Khôn Tây Nam,
Mạng Thủy nước chảy ra vàm tiền giang.
Thu, Đông sanh đặng thời sang,
Giàu nghèo cũng sướng thanh nhàn tấm thân.
Xuân, Hạ sanh ra khổ bần,
Hai mùa cũng lỗi tảo tần gian nan.
Số phải chết hụt, chết oan,
Không thì bị bắt họ toan giam cầm.
Luận qua đoán số vợ chồng,
Duyên đầu lỡ dở tơ hồng xe lơi.
Lỗi số vận mạng đổi dời,
Ly hương tổ quán ở thời mới an.
Cô bác nhiều kẻ giàu sang,
Ta nghèo phải chịu khó toan cậy nhờ.
Một mình quạnh quẻ bơ vơ,
Như cây rụng lá đứng trơ giữa đồng.
Anh em cha mẹ hai dòng,
Không chồng thì vợ lòng thòng đôi ba.
Đầu tiên có của làm ra,
Nhiều lúc đặng khá hiệp mà cũng tan.
Kết làm bạn hữu chẳng an,
Nhiều kẻ phản phúc họ toan hại mình.
Hậu vận lập nên gia đình.
Thanh nhàn giàu có thiệt tình chẳng sai.

Tuổi Giáp Ngọ sanh 1894 và 1954

Giáp Ngọ cung Ly, mạng Kim,
Trực Chấp để gác đòn dong, thả đòn tay,
Cung Phi dùng cất nhà, xây hướng,
Sanh 1894, cung phi: Nam cung Đoài, Nữ cung Cấn
Sanh 1954, cung phi: Nam cung Khảm, Nữ cung Cấn.


Giáp Ngọ cung Ly, mạng Kim,
Vàng ở trong cát rán tìm giàu sang.
Thìn, Tuất, Sửu, Mùi sanh thai,
Thân, Dậu, tháng sáu ít ai dám bì.
Xuân, Hạ sanh ra phải nguy,
Tỵ, Ngọ hai tháng khắc thì gian nan.
Lỗi sanh cực nhọc bần hàn,
Đặng sanh sung sướng như nàng tiên nga.
Mấy lần chết hụt đặng qua,
Tưởng đâu diêm chúa đòi ta đi rồi.
Bạc tiền không có thì thôi,
Có thì ai hỏi cũng lôi đưa liền.
Ăn rồi phản phúc tự nhiên,
Ơn đâu không thấy oán liền theo tay.
Có tánh nóng giận chẳng hay,
Gặp ai thách đố làm oai đánh liền.
Mạnh yếu ta cũng chẳng kiên,
Ai cản chẳng dặng như điên biết gì.
Vợ chồng lỡ dở trước khi,
Nhiều chỗ nói cưới không thì đẹp duyên.
Đàn ông Giáp Ngọ chẳng hiền,
Đàn bà mạng lớn chẳng kiên sợ chồng.
Nhiều kẻ đôi thứ ba dòng,
Ít ai ở đặng một chồng mới ngoan.

Tuổi Ất Mùi sanh 1895 và 1955

Ất Mùi cung Khảm, mạng Kim,
Trực Phá để gác đòn dong, thả đòn tay,
Cung Phi dùng cất nhà, xây hướng,
Sanh 1895, cung phi: Nam cung Càn, Nữ cung Ly
Sanh 1955, cung phi: Nam cung Ly, Nữ cung Càn.


Ất Mùi cung Khảm, mạng Kim,
Vàng ở trong cát đi tìm dễ thay.
Thìn, Tuất, Sửu, Mùi sanh thai,
Mùa Thu cũng tốt gái trai thanh nhàn.
Xuân, Hạ sanh gái là nàng,
Sanh trai cũng lỗi thiếp chàng lương khương.
Giàu có cũng cực như thường,
Đốn cây, phát cỏ, vét mương tối ngày.
Đặng sanh thong thả quá tay,
Nghèo thì cũng sướng guốc giày nhổn nhan.
Biếng nhác cũng đặng thanh nhàn,
Dạo chơi thành thị kẻ sang giúp rày.
Tuổi ta có tánh thày lay,
Của nhà không có hỏi vay cho người.
Lấy đặng hỉ hả vui cười,
Sau đòi không trả để lời cho ta.
Ất Mùi đàn ông đàn bà,
Ít kẻ hung dữ thiệt là hiền lương.
Ai nói hung dữ ta nhường,
Nhiều người thấy vậy họ thương tánh tình.
Trung niên đặng lập gia đình,
Mấy lần làm khá thình lình rả tan.
Hậu vận có của mới an,
Lập nên gia thất vững vàng qui mô.

Tuổi Bính Thân sanh 1896 và 1956

Bính Thân cung Khôn, mạng Hỏa,
Trực Khai để gác đòn dong, thả đòn tay,
Cung Phi dùng cất nhà, xây hướng,
Sanh 1896, cung phi: Nam cung Khôn, Nữ cung Khảm
Sanh 1956, cung phi: Nam cung Cấn, Nữ cung Đoài.


Bính Thân cung Khôn rõ ràng,
Lửa ở dưới núi cháy lan đỏ trời.
Tuổi sanh Xuân, Hạ gặp thời,
Giàu nghèo cũng đặng an nơi thanh nhàn.
Thu, Đông lỗi số chẳng an,
Có của cũng cực, lưng mang quần đùi.
Tay chân bùn lấm hút hui,
Tới bữa cơm dọn lui cui làm hoài.
Lỗi số cực khổ quá tay,
Đặng sanh thong thả guốc giày nhổn nhan.
Duyên tình lỡ dở chẳng an,
Gặp nhau xa tổng khác làng mới nên.
Thuở đầu cầm của chẳng bền,
Nhà cửa nhiều lớp chẳng nên bất thành.
Vợ chồng xung khắc chẳng lành,
Nói ra gây dữ tụng tranh bất hòa.
Thương người đói khó nhưng là,
Tiền bạc trợ giúp sau mà phản ta.
Ăn rồi quẹt mỏ như gà,
Hết giận hỏi nữa, thì ta giúp dùm.
Tánh nóng như hổ như hùm,
Không làm độc ác hại cùng người ngay.
Quới nhân độ mạng ta rày,
Không thời chết hụt sẩy tay nhiều lần.

Tuổi Đinh Dậu sanh 1897 và 1957

Đinh Dậu cung Chấn, mạng Hỏa,
Trực Bế để gác đòn dong, thả đòn tay,
Cung Phi dùng cất nhà, xây hướng,
Sanh 1897, cung phi: Nam cung Tốn, Nữ cung Khôn
Sanh 1957, cung phi: Nam cung Đoài, Nữ cung Cấn.


Đinh Dậu cung Chấn tuổi ta,
Lửa ở dưới núi sáng lòa ngày đêm.
Xuân, Hạ sanh ra vững bền,
Đặng sanh sung sướng làm nên chức quyền.
Thu, Đông lỗi số tự nhiên,
Hỏa bị Thủy khắc đảo điên cực hoài.
Tuổi sanh nam nữ gái trai,
Hiền lành tánh nhác ít ai hung sùng.
Số tuổi tai nạn hãi hùng,
Tưởng đâu bỏ xác âm cung đã rồi.
Duyên tình trước phải lôi thôi,
Nhiều chỗ nói cưới, hỏi rồi bỏ qua.
Trung vận lặn lội bôn ba,
Khá rồi tan rả khiến ta chưa cầm.
Hậu vận mới đặng an tâm,
Dư ăn dư để của cầm khỏi rơi.
Căn số vận mạng đổi dời,
Tổ phụ xa cách ở thời mới an.
Tánh linh biết trước rõ ràng,
Nghi ai thì có luận bàn chẳng sai.
Số tuổi lòng dạ thẳng ngay,
Nhỏ thời gian xảo, lớn rày không tham.
Ai mà dùm giúp không ham,
Tiền bạc lo trả người làm mới ưng.

Tuổi Mậu Tuất sanh 1898 và 1958

Mậu Tuất cung Tốn, mạng Mộc,
Trực Bình để gác đòn dong, thả đòn tay,
Cung Phi dùng cất nhà, xây hướng,
Sanh 1898, cung phi: Nam cung Chấn, Nữ cung Chấn
Sanh 1958, cung phi: Nam cung Càn, Nữ cung Ly.


Mậu Tuất cung Tốn tuổi này,
Mạng Mộc bình địa là cây đất bằng.
Hạ, Thu sanh đẻ khó khăn,
Hai mùa lỗi số lăng xăng cực hoài.
Đông, Xuân tuổi gặp sanh thai,
Thanh nhàn sung sướng ít ai dám bì.
Nhiều lúc tai nạn hiểm nguy,
Tưởng đâu bỏ xác hồn đi chầu Trời.
Buổi đầu vận mạng lôi thôi,
Nhà cửa nhiều lớp có thời cũng tan.
Vợ chồng xung khắc chẳng an,
Xáp lại gây gổ, vắng thời nhớ thương.
Nữ nhân ít kẻ hiền lương,
Gặp chồng mạng nhỏ phải nhường nhịn ngay.
Dằn bớt tâm tánh mới hay,
Ra ngoài đường chẳng thua ai bao giờ.
Có tánh hời hợt hẩn hờ,
Đồ đạc, tiền của họ quơ mất hoài.
Tuổi ta làm bạn với ai,
Thương người giúp đỡ khỏi tay phản liền.
Giận ai nóng nảy tự nhiên,
Gặp kẻ thách đố chẳng kiên nhảy vào.
Tuổi già từ thiện quản bao,
Trung niên khẳng khái tù lao sợ gì.

Tuổi Kỷ Hợi sanh 1899 và 1959

Kỷ Hợi cung Cấn, mạng Mộc,
Trực Định để gác đòn dong, thả đòn tay,
Cung Phi dùng cất nhà, xây hướng,
Sanh 1899, cung phi: Nam cung Khôn, Nữ cung Tốn
Sanh 1959, cung phi: Nam cung Khôn, Nữ cung Khảm.


Kỷ Hợi cung Cấn thị danh,
Mạng Mộc bình địa cây sanh trái hoằn.
Đông, Xuân sanh ra ai bằng,
Hai mùa thuận số có ăn thanh nhàn.
Hạ, Thu sanh gái là nàng,
Sanh trai cũng lỗi thiếp chàng cực thân.
Lỗi sanh làm đặng công thần,
Lo nhà, lo nước, lo dân đêm ngày.
Đặng sanh sung sướng quá tay,
Nghèo cũng thong thả guốc giày nhổn nhan.
Vợ chồng trắc trở đôi phang,
Tình duyên lỡ dở chớ than buổi đầu.
Nhiều lúc nguy hiểm buồn rầu,
Tưởng đâu bỏ xác đã chầu diêm vương,
Nam nữ gặp buổi hiền lương,
Thấy ai ngọt dịu thì thương giúp liền.
Giúp công, giúp của, giúp tiền,
Ăn cho ngập mặt phản liền theo tay.
Số tuổi tu niệm ăn chay,
Lòng ở nhân đức có ngày làm nên.
Ra đàng thân kẻ bề trên,
Chức quyền, thầy thợ kẻ trên giúp mình.
Tâm tánh sáng suốt thông minh,
Nghi gì thì có, thiệt tình chẳng sai.

Tuổi Canh Tý sanh 1900 và 1960

Canh Canh Tý cung Càn, mạng Thổ,
Trực Thành để gác đòn dong, thả đòn tay,
Cung Phi dùng cất nhà, xây hướng,
Sanh 1900, cung phi: Nam cung Khảm, Nữ cung Cấn
Sanh 1960, cung phi: Nam cung Tốn, Nữ cung Khôn.


Canh Tý mạng Thổ cung Càn,
Đất ở đầu vách khô khan cứng rày.
Thìn, Tuất, Sửu, Mùi sanh thai.
Mùa Hạ bốn tháng đặng rày mùa sanh.
Mùa Xuân, Mộc khắc chẳng lành,
Cha mẹ lo lắng vì sanh lỗi mùa.
Lớn khôn mà đặng làm vua,
Đem binh chinh chiến đánh thua bế thành.
Nữ nhân chấp chưởng quyền hành,
Gặp chồng mạng nhỏ phải đành nhịn ngay.
Tuổi này lâm vào chàng trai,
Oai quyền sang trọng ai ai cũng nhường.
Có tánh khẳng khái đảm đương,
Thấy mạnh hiếp yếu thì thương nhảy vào.
Bạc tiền như thể chiêm bao,
Buổi đầu làm khá, sớm vào tối ra.
Tạo lập nhiều lớp cửa nhà,
Mua cất rồi bán sau mà mới an.
Thấy ai năn nỉ thở than,
Bạc tiền trợ giúp họ toan phản liền.
Nghề nghiệp thầy thợ, chức quyền,
Không thì hương xã mới yên số này.
Vợ chồng xung khắc hay rầy,
Nói ra chẳng nhịn hay gây lẽ thường.

Tuổi Tân Sửu sanh 1901 và 1961

Tân Sửu cung Đoài, mạng Thổ,
Trực Thâu để gác đòn dong, thả đòn tay,
Cung Phi dùng cất nhà, xây hướng,
Sanh 1901, cung phi: Nam cung Ly, Nữ cung Càn
Sanh 1961, cung phi: Nam cung Chấn, Nữ cung Chấn.


Tân Sửu mạng Thổ cung Đoài,
Đất ở trên vách ít ai cuốc đào.
Tháng giêng, tháng hai lao đao,
Thu, Đông cũng cực tránh sao khỏi rày.
Mùa Hạ mà đặng sanh thai,
Thanh nhàn thong thả ít ai dám bì.
Số tuổi chết hụt nhiều khi,
Phước đức qua khỏi, không thì mạng vong.
Anh em cha mẹ hai dòng,
Không thì chồng vợ lòng thòng đôi ba.
Anh em xung khắc chẳng hòa,
Ở xa thương nhớ, về nhà khắc xung.
Giận ai nói dữ làm hung,
Cũng như Quan Đế Huê Dung tha Tào.
Trung niên nhiều lúc lao đao,
Dời đổi xa xứ biết bao nhiêu lần.
Người dưng giúp đỡ ân cần,
Cô, dì, chú, bác, thích thân không nhờ.
Phật, Trời tin thưởng phụng thờ,
Không lòng độc ác bao giờ hại ai.
Số tuổi có tánh thày lay,
Của nhà không có hỏi vay cho người.
Lấy đặng hỉ hả vui cười,
Sau đòi không trả, trốn rồi giựt luôn.

Tuổi Nhâm Dần sanh 1902 và 1962

Nhâm Dần cung Cấn, mạng Kim,
Trực Trừ để gác đòn dong, thả đòn tay,
Cung Phi dùng cất nhà, xây hướng,
Sanh 1902, cung phi: Nam cung Cấn, Nữ cung Đoài
Sanh 1962, cung phi: Nam cung Khôn, Nữ cung Tốn.


Nhâm Dần cung Cấn, mạng Kim,
Là vàng tây trắng dễ tìm được ngay.
Mùa Thu mà đặng sanh thai,
Sửu, Mùi, Thìn, Tuất sanh nay đặng mùa.
Đông, Xuân cũng chẳng ăn thua,
Sanh gặp mùa Hạ, ba mùa lỗi sanh.
Tuổi nhỏ như thể chỉ mành,
Ốm đau tật bệnh đã đành khó nuôi.
Tánh tình ăn nói bãi buôi,
Khôn ngoan mềm mỏng hay vui, hay cười.
Nữ nhân sang số hơn người,
Gặp chồng hiền đức phải thời nhịn ngay.
Nam nhân sang số mới hay,
Đôi dòng ba thứ vợ ngoài,vợ trong.
Số ta chết hụt phải phòng,
Tướng mạng lớn lắm, khó mong sống rày.
Làm ơn cho bạn chẳng nài,
Bạc tiền trợ giúp có ngày hại ta.
Anh em, cô bác chẳng hòa,
Giàu có muôn hộ thì ta chẳng màng.
Đầu tiên cầm của chẳng an,
Nhà đôi ba lớp rả tan đổi dời,
Hậu vận mới đặng thảnh thơi,
Lập nên gia thất của thời làm ra.

Tuổi Quý Mẹo sanh 1903 và 1963

Quý Mẹo cung Ly, mạng Kim,
Trực Mãn để gác đòn dong, thả đòn tay,
Cung Phi dùng cất nhà, xây hướng,
Sanh 1903 , cung phi: Nam cung Đoài, Nữ cung Cấn
Sanh 1963, cung phi: Nam cung Khảm, Nữ cung Cấn.


Quý Mẹo mạng Kim cung Ly,
Là vàng tây trắng đặng thì giàu ngay.
Mùa Thu mà đặng sanh thai,
Như tiên giáng thế xuống rày trần gian.
Mùa Hạ, Hỏa khắc chẳng an,
Như cây mọc ở đầu làng gió lay.
Gặp tuổi nam nữ gái trai,
Hiền lành nhiều kẻ ít ai hung sùng.
Giận ai nói dữ làm hung.
Gặp kẻ lấn thế ta dùng lời êm.
Ăn nói ngọt dịu mỏng mềm,
Ít ai ghen ghét bề trên thương mình.
Bụng người cũng có tánh linh,
Nghi ai thì có thiệt tình chẳng sai.
Làm ơn cho bạn phản hoài,
Tiền bạc mượn hỏi khỏi tay phản liền.
Buổi đầu trắc trở tình duyên,
Nhiều chỗ gắm ghé chẳng yên nơi nào.
Số ta mạng vận lao đao,
Nhiều lần có của tốn hao rả rời.
Hậu vận mới đặng thảnh thơi,
Gia đình tạo lập ta thời làm ra.
Anh em thân thích chẳng hòa,
Giàu có rân rác thì ta khó nhờ.

Tuổi Giáp Thìn sanh 1904 và 1964

Giáp Thìn cung Tốn, mạng Hỏa,
Trực Phá để gác đòn dong, thả đòn tay,
Cung Phi dùng cất nhà, xây hướng,
Sanh 1904, cung phi: Nam cung Càn, Nữ cung Ly
Sanh 1964, cung phi: Nam cung Ly, Nữ cung Càn.


Giáp Thìn cung Tốn thai sanh,
Mạng Hỏa là lửa ở quanh ngọn đèn.
Thu, Đông sanh đặng khổ hèn,
Xuân, Hạ sanh đặng như đèn sáng trưng.
Đặng sanh sung sướng vui mừng,
Lỗi sanh cực nhọc vì chưng sái mùa.
Ví như cờ bạc đánh thua,
Về nhà lo lắng như cua gãy càng.
Giáp Thìn sanh gái là nàng,
Gặp chồng mạng nhỏ chịu hàng đầu ngay.
Tuổi này lâm vào chàng trai,
Quan tước, thầy thợ ai ai cũng vì.
Duyên tình lỡ dở trước khi,
Nhiều nơi muốn nói, thương thì bỏ qua.
Vợ chồng dời đổi đôi ba,
Ít ai giữ trọn số ta một đời.
Số tuổi chết hụt chơi vơi,
Không thời mang tật ở nơi thân mình.
Bụng người cũng có tánh linh,
Nghi gì thì có thjêt tình chẳng sai.
Làm ơn cho bạn phản hoài,
Ăn rồi lấy giáo đâm rày lại ta.
Hậu vận lập nên thất gia,
Tiền vận làm mấy lớp nhà cũng tan.

Tuổi Ất Tỵ sanh 1905 và 1965

Ất Tỵ cung Đoài, mạng Hỏa,
Trực Nguy để gác đòn dong, thả đòn tay,
Cung Phi dùng cất nhà, xây hướng,
Sanh 1905, cung phi: Nam cung Khôn, Nữ cung Khảm
Sanh 1965, cung phi: Nam cung Cấn, Nữ cung Đoài.


Ất Tỵ mạng Hỏa, cung Đoài,
Là lửa cháy sáng ở rày tọa đăng.
Thu, Đông cực nhọc khó khăn,
Hai mùa sanh lỗi có ăn lo hoài.
Xuân, Hạ mà đặng sanh thai,
Có kẻ hầu hạ, có đầy tớ sai.
Hiền lành ăn ở thẳng ngay,
Nhỏ thời gian xảo, lớn rày không tham.
Thân tộc giàu có không ham,
Nghèo thì ta chịu ăn làm nấy ăn.
Anh em xung khắc khó khăn,
Ở gần nghịch ý, nói năng chẳng hòa.
Đầu tiên nhiều lớp cửa nhà,
Giữ không bền vững, sau mà mới nên.
Kết thân bạn hữu chẳng bền,
Ăn rồi phản phúc họ quên ơn liền.
Số phải trắc trở tình duyên,
Vợ chồng lỡ dở chẳng yên một đời.
Mạng ta phước lớn nhờ trời,
Khỏi bị chết hụt cũng thời cầm giam.
Trung nghĩa phước đức nên làm,
Tham tài ác đức chớ ham làm gì.
Có tay cầm của lo chi,
Tuổi muộn lập nghiệp có thì của dư.

Tuổi Bính Ngọ sanh 1906 và 1966

Bính Ngọ cung Càn, mạng Thủy,
Trực Mãn để gác đòn dong, thả đòn tay,
Cung Phi dùng cất nhà, xây hướng,
Sanh 1906, cung phi: Nam cung Tốn, Nữ cung Khôn
Sanh 1966, cung phi: Nam cung Đoài, Nữ cung Cấn.


Bính Ngọ mạng Thủy, cung Càn,
Mạng ta là nước ở sông Giang Hà,
Thu, Đông sanh nhằm tuổi ta,
Đặng mùa Vượng Tướng số ta thanh nhàn.
Xuân, Hạ sanh thiếp với chàng,
Lỗi sanh cực nhọc cơ hàn gian nan.
Nhiều lúc nguy hiểm chẳng an,
Tưởng đâu chết hụt chết oan đã rồi.
Duyên tình lỡ dở lôi thôi.
Đôi nơi nói cưới, tính rồi bỏ qua.
Anh em xung khắc chẳng hòa,
Đi xa thương nhớ, về nhà chẳng yên.
Làm ơn cho bạn phản liền,
Số tuổi bạc phận kết nguyền đệ huynh.
Tuổi ta lại có tánh linh,
Nghi ai thì trúng, thiệt tình chẳng sai.
Nữ nhân tướng mạng lớn thay,
Quyền hành chấp chưởng, lo nay gia đình.
Gặp kẻ ăn nói bất bình,
Giận người lỗ mãng thiệt tình khó dung.
Tướng mạng khẳng khái anh hùng,
Ai mà biết lỗi thì dung tha liền.
Hậu vận cầm đặng của tiền,
Lập nên gia thất, đất điền có ngay.

Tuổi Đinh Mùi sanh 1907 và 1967

Đinh Mùi cung Đoài, mạng Thủy,
Trực Bình để gác đòn dong, thả đòn tay,
Cung Phi dùng cất nhà, xây hướng,
Sanh 1907, cung phi: Nam cung Chấn, Nữ cung Chấn
Sanh 1967, cung phi: Nam cung Càn, Nữ cung Ly.


Đinh Mùi mạng Thủy, cung Đoài,
Nước Thiên hà thủy nhỏ hoài như mưa.
Thu, Đông sanh đặng mới vừa,
Giỗ quảy, đám tiệc rước đưa mời hoài.
Xuân, Hạ lỗi sanh chẳng may,
Ăn sau, bưng dọn, họ sai liền liền.
Số mạng tưởng đã quy thiên,
Nhiều lúc nguy hiểm đảo điên gặp hoài.
Không phần làm bạn với ai,
Bạc tiền trợ giúp phản rày lại ta.
Ăn rồi quẹt mỏ như gà,
Khỏi miệng phản phúc họ đà quên ơn.
Buổi đầ

    Tuổi Bính Ngọ sanh 1906 và 1966

    Bính Ngọ cung Càn, mạng Thủy,
    Trực Mãn để gác đòn dong, thả đòn tay,
    Cung Phi dùng cất nhà, xây hướng,
    Sanh 1906, cung phi: Nam cung Tốn, Nữ cung Khôn
    Sanh 1966, cung phi: Nam cung Đoài, Nữ cung Cấn.


    Bính Ngọ mạng Thủy, cung Càn,
    Mạng ta là nước ở sông Giang Hà,
    Thu, Đông sanh nhằm tuổi ta,
    Đặng mùa Vượng Tướng số ta thanh nhàn.
    Xuân, Hạ sanh thiếp với chàng,
    Lỗi sanh cực nhọc cơ hàn gian nan.
    Nhiều lúc nguy hiểm chẳng an,
    Tưởng đâu chết hụt chết oan đã rồi.
    Duyên tình lỡ dở lôi thôi.
    Đôi nơi nói cưới, tính rồi bỏ qua.
    Anh em xung khắc chẳng hòa,
    Đi xa thương nhớ, về nhà chẳng yên.
    Làm ơn cho bạn phản liền,
    Số tuổi bạc phận kết nguyền đệ huynh.
    Tuổi ta lại có tánh linh,
    Nghi ai thì trúng, thiệt tình chẳng sai.
    Nữ nhân tướng mạng lớn thay,
    Quyền hành chấp chưởng, lo nay gia đình.
    Gặp kẻ ăn nói bất bình,
    Giận người lỗ mãng thiệt tình khó dung.
    Tướng mạng khẳng khái anh hùng,
    Ai mà biết lỗi thì dung tha liền.
    Hậu vận cầm đặng của tiền,
    Lập nên gia thất, đất điền có ngay.

    Tuổi Đinh Mùi sanh 1907 và 1967

    Đinh Mùi cung Đoài, mạng Thủy,
    Trực Bình để gác đòn dong, thả đòn tay,
    Cung Phi dùng cất nhà, xây hướng,
    Sanh 1907, cung phi: Nam cung Chấn, Nữ cung Chấn
    Sanh 1967, cung phi: Nam cung Càn, Nữ cung Ly.


    Đinh Mùi mạng Thủy, cung Đoài,
    Nước Thiên hà thủy nhỏ hoài như mưa.
    Thu, Đông sanh đặng mới vừa,
    Giỗ quảy, đám tiệc rước đưa mời hoài.
    Xuân, Hạ lỗi sanh chẳng may,
    Ăn sau, bưng dọn, họ sai liền liền.
    Số mạng tưởng đã quy thiên,
    Nhiều lúc nguy hiểm đảo điên gặp hoài.
    Không phần làm bạn với ai,
    Bạc tiền trợ giúp phản rày lại ta.
    Ăn rồi quẹt mỏ như gà,
    Khỏi miệng phản phúc họ đà quên ơn.
    Buổi đầu cách trở nợ dươn,
    Một đời cố gắng giận hờn khắc xung.
    Anh em hội hiệp chung cùng,
    Gần nhau xích mích ở chung đặng nào.
    Tiền bạc như thể chiêm bao,
    Nhiều lúc làm khá tốn hao chẳng cầm.
    Nhiều khi trách trộm buồn thầm,
    Người sao một tuổi họ cầm bạc muôn.
    Có tay thương mãi bán buôn,
    Giữ cho cần kiệm có thường đủ ăn.
    Người đời như thể mặt trăng,
    Hết lờ tới tỏ tại căn số phần.

    Tuổi Mậu Thân sanh 1908 và 1968

    Mậu Thân cung Cấn, mạng Thổ,
    Trực Định để gác đòn dong, thả đòn tay,
    Cung Phi dùng cất nhà, xây hướng,
    Sanh 1908, cung phi: Nam cung Khôn, Nữ cung Tốn
    Sanh 1968, cung phi: Nam cung Khôn, Nữ cung Khảm.


    Mậu Thân cung Cấn tuổi này,
    Mạng Thổ là đất bùn lầy chẳng sai.
    Thìn, Tuất, Sửu, Mùi sanh thai,
    Tỵ, Ngọ sáu tháng dặng nay thanh nhàn.
    Thu, Đông sanh gái là nàng,
    Mùa Xuân cũng lỗi sanh chàng cực thân.
    Tuổi phải chết hụt đôi lần,
    Không thì tật bệnh khổ thân sau này.
    Số ta quyền tước, thợ thầy,
    Tình duyên chồng vợ đổi xây đôi lần.
    Anh em thân tộc chẳng gần,
    Ai làm nấy hưởng thích thân không màng,
    Đầu tiên có của chẳng an,
    Nhà cửa nhiều lớp rả tan đổi đời.
    Vợ chồng xung khắc chẳng đời,
    Nói ra gây gổ chịu thời đắng cay,
    Nữ nhân sang số quá tay,
    Gặp chồng hiền đức đặng nay cầm quyền.
    Gặp chồng mạng lớn phải kiên,
    Ít ai ở đặng cho yên trọn đời.
    Hậu vạn nhà cửa an nơi,
    Dạ ở nhân đức sau thời an thân.
    Đừng ở hung dữ như Tần,
    Đày mẹ đốt sách, hại dân chôn người.

    Tuổi Kỷ Dậu 1909 và 1969

    Kỷ Dậu cung Ly, mạng Thổ,
    Trực Khai để gác đòn dong, thả đòn tay,
    Cung Phi dùng cất nhà, xây hướng,
    Sanh 1909, cung phi: Nam cung Khảm, Nữ cung Cấn
    Sanh 1969, cung phi: Nam cung Tốn, Nữ cung Khôn.


    Kỷ Dậu mạng Thổ, cung Ly,
    Đại trạch là đất ở thì sa nê.
    Thìn, Tuất, Sửu, Mùi chẳng chê,
    Tý, Ngọ sáu tháng đặng bề an thân.
    Thu, Đông hưu tù phân vân,
    Hai mùa làm đặng công thần cũng lo.
    Đầu tiên làm có của kho,
    Giữ cũng chẳng được đâu cho đặng toàn.
    Nhà cửa nhiều lớp rả tan,
    Lặn lội đi đủ xa đàng khắp nơi.
    Số ta nhờ phước Phật Trời.
    Tưởng đâu chết hụt xa thời dương gian.
    Anh em xung khắc chẳng an,
    Cô bác có của khó toan cậy nhờ.
    Thấy mặt giả điếc làm lơ,
    Người dưng giúp đỡ không nhờ thích thân.
    Số tuổi vô phước xấu phần,
    Chơi bạn không tốt nhiều lần phản ta.
    Ăn rồi quẹt mỏ như gà,
    Bạc tiền trợ giúp sau mà phản ngay.
    Vợ chồng cắn đắng thường ngày,
    Vắng mặt thương nhớ, gần rày chẳng yên.
    Hậu vận cầm đặng của tiền,
    Lập nên gia thất mới yên tuổi già.

    Tuổi Canh Tuất sanh 1910 cà 1970

    Canh Tuất cung Khảm, mạng Kim,
    Trực Khai để gác đòn dong, thả đòn tay,
    Cung Phi dùng cất nhà, xây hướng,
    Sanh 1910, cung phi: Nam cung Ly, Nữ cung Càn
    Sanh 1970, cung phi: Nam cung Chấn, Nữ cung Chấn.


    Canh Tuất cung Khảm rõ ràng,
    Mạng Kim xoa xuyến là vàng đeo tay.
    Mùa Thu mà đặng sanh thai,
    Như tiên giáng thế đặng nay thanh nhàn.
    Mùa Hạ, Hỏa khắc chẳng an,
    Đông, Xuân cũng lỗi thiếp chàng cực thân.
    Thầy thợ, chức tước, công thần,
    Lỗi sanh vất vả mười phần chẳng yên.
    Nữ nhân tướng mạng chẳng hiền,
    Gặp chồng mạng nhỏ phải kiên dạ liền.
    Ít kẻ một đời ở yên,
    Chữ Canh, chữ Mậu đảo điên nhiều chồng.
    Trai thời đôi thứ ba dòng,
    Không thì xung khắc long đong chẳng hòa.
    Đầu tiên nhiều lớp cửa nhà,
    Làm ăn có của ở mà chẳng yên.
    Làm ơn cho bạn phản liền,
    Ơn đâu không thấy, làm phiền cho ta.
    Nhiều lần chết hụt đoán ra,
    Bị kẻ vu cáo, vu oan chẳng nhầm.
    Lỗi sanh tiền bạc khó cầm,
    Hết rồi có nữa nhiều lần chẳng sai,
    Thân thích cũng không nhờ ai,
    Lập nên gia thất tự tay mình làm.

    Tuổi Tân Hợi sanh 1911 và 1971

    Tân Hợi cung Khôn, mạng Kim,
    Trực Khai để gác đòn dong, thả đòn tay,
    Cung Phi dùng cất nhà, xây hướng,
    Sanh 1911, cung phi: Nam cung Cấn, Nữ cung Đoài
    Sanh 1971, cung phi: Nam cung Khôn, Nữ cung Tốn.


    Tân Hợi cung Khôn phải rồi,
    Mạng Kim xoa xuyến vàng đôi rõ ràng.
    Mùa Thu sanh ra thiếp chàng,
    Đều đặng sung sướng thanh nhàn lo chi.
    Mùa Hạ bị khắc hàn vi,
    Đông, Xuân cũng lỗi giàu thì cực thân.
    Anh em xích mích nhiều lần,
    Ở xa thương nhớ, lại gần khắc xung.
    Giận ai nói dữ làm hung,
    Không lòng đọc ác hại cùng người ta.
    Tuổi sanh nam nữ thật thà,
    Ít khi gây sự vậy thì với ai.
    Thấy người lỡ bước trái tay.
    Bạc tiền giúp đỡ sau này quên ơn.
    Số tuổi cách trở tình dươn,
    Vợ chồng lỡ dở giận hờn thôi đi.
    Nhiều lúc tai nạn hiểm nguy,
    Tưởng đâu âm phủ đòi đi đã rồi.
    Gặp chuyện rắc rối lôi thôi.
    Ngay gian cũng bị kéo lôi giam cầm.
    Hậu vận mới đặng an tâm,
    Trước khi có của nhiều lần ra tan.
    Anh em cô bác giàu sang,
    Người dưng giúp đỡ không màng thích thân.

    Tuổi Nhâm Tý sanh 1912 và 1972

    Nhâm Tý cung Chấn, mạng Mộc,
    Trực Phá để gác đòn dong, thả đòn tay,
    Cung Phi dùng cất nhà, xây hướng,
    Sanh 1912, cung phi: Nam cung Đoài, Nữ cung Cấn
    Sanh 1972, cung phi: Nam cung Khảm, Nữ cung Cấn.


    Nhâm Tý cung Chấn chẳng lầm,
    Tang Đố mạng Mộc nuôi tằm cây dâu.
    Mùa Thu bi khắc buồn rầu,
    Mùa Hạ cũng lỗi lo âu đêm ngày.
    Đông, Xuân gặp đặng sanh thai,
    Vượng Tướng thong thả ít ai dám bì.
    Duyên tình trắc trở trước khi,
    Nhiều chỗ nói cưới sau thì bỏ qua.
    Gặp tuổi đàn ông, đàn bà,
    Cũng đều sang số tuổi ta như vầy.
    Quyền tước, nghề nghiệp thợ thầy,
    Vợ chồng xung khắc đổi xây đôi đời.
    Phải phòng tù tội chẳng chơi,
    Khỏi bị chết hụt sa nơi giam cầm.
    Anh em bạn hữu phản tâm.
    Ăn rồi lấy giáo trở đâm lại mình.
    Bụng người cũng có tánh linh,
    Hồ nghi thì có thiệt tình chẳng sai.
    Đầu tiên làm có của hoài,
    Cũng đều tan ra đổi thay gia đình.
    Lòng dạ sáng suốt thông minh,
    Ai tính mưu kế thì mình biết ngay.
    Có tánh nóng nảy chẳng hay,
    Gặp người thách đố ta nay không vì.

    Tuổi Quý Sửu sanh 1913 và 1973

    Quý Sửu cung Tốn, mạng Mộc,
    Trực Nguy để gác đòn dong, thả đòn tay,
    Cung Phi dùng cất nhà, xây hướng,
    Sanh 1913, cung phi: Nam cung Càn, Nữ cung Ly
    Sanh 1973, cung phi: Nam cung Ly, Nữ cung Càn.


    Quý Sửu số tuổi Tốn cung,
    Tang Đố mạng Mộc để dùng tằm ăn.
    Mùa Thu sanh lỗi khó khăn,
    Vận mạng dời đổi có ăn lo hoài.
    Mùa Xuân mà đặng sanh thai.
    Thanh nhàn sung sướng guốc giày nhổn nhan.
    Sanh ra thuở nhỏ gian nan,
    Tưởng đâu thế giới đòi sang đi rồi.
    Lòng dạ chẳng chịu đổi dời,
    Nhỏ thì gian xảo, lớn thời không ham.
    Anh em nghèo khổ bao hàm,
    Lộc tài lo giúp của đem cho hoài.
    Ăn rồi khỏi miệng phản ngay,
    Khi ta có việc cậy ai đặng nào.
    Giận ai nói dữ hùng hào,
    Tánh nóng như lửa đổ vào dầu hôi.
    Biết quấy năn nỉ thì thôi,
    Giận thì la lối hết rồi bỏ qua.
    Đầu tiên nhiều lớp cửa nhà,
    Làm có tiền của khiến mà rả tan.
    Thích thân giàu có chẳng màng,
    Người dưng giúp đỡ xóm làng cậy nương.
    Số mạng phải chịu tai tương,
    Khỏi lâm tù tội cũng vương giam cầm.

    Tuổi Giáp Dần sanh 1914 và 1974

    Giáp Dần cung Cấn, mạng Thủy,
    Trực Khai để gác đòn dong, thả đòn tay,
    Cung Phi dùng cất nhà, xây hướng,
    Sanh 1914, cung phi: Nam cung Khôn, Nữ cung Khảm
    Sanh 1974, cung phi: Nam cung Cấn, Nữ cung Đoài.


    Giáp Dần cung Cấn khôn ngoan,
    Đại Khê mạng Thủy nước sang chảy hoài.
    Thu, Đông mà đặng sanh thai,
    Thanh nhàn thong thả hằng ngày sướng thân.
    Xuân, Hạ sanh bị khổ bần,
    Đêm ngày lo lắng mười phần chẳng an.
    Tuổi sanh vận mạng gian nan,
    Tưởng đâu âm phủ đòi sang đã rồi,
    Duyên tình trắc trở lôi thôi,
    Vợ chồng dời đổi vậy thì đôi ba.
    Anh em, cha mẹ chẳng hòa,
    Ở gần xung khắc đi xa nhớ rày.
    Vô phần chơi bạn hôm nay.
    Nhiều người phản phúc ít ai thiệt tình.
    Bụng người cũng có tánh linh,
    Nghi ai thì trúng, thiệt tình chẳng sai.
    Nữ nhân chấp chưởng gia tài,
    Quyền hành nắm giữ trong ngoài lo âu.
    Nam nhân quyền tước công hầu,
    Không thầy cũng thợ tóm thâu nhiều nghề.
    Lỗi sanh lao khổ tư bề,
    Nhà cửa dời đổi xa quê họ hàng.
    Tiểu vận làm có rả tan,
    Hậu vận tụ của gia đàng ấm no.

    Tuổi Ất Mẹo sanh 1915 và 1975

    Ất Mẹo cung Ly, mạng Thủy,
    Trực Bế để gác đòn dong, thả đòn tay,
    Cung Phi dùng cất nhà, xây hướng,
    Sanh 1915, cung phi: Nam cung Tốn, Nữ cung Khôn
    Sanh 1975, cung phi: Nam cung Đoài, Nữ cung Cấn.


    Ất Mẹo mạng Thủy cung Ly,
    Đại Khê là nước chảy thì thiên nhiên.
    Thu, Đông sanh đặng mới yên,
    Thanh nhàn sung sướng như tiên hạ trần.
    Xuân, Hạ bị lỗi cực thân,
    Giàu có làm đặng công thần cũng lo.
    Tánh tình ngoan cố khó dò,
    Giận ai nói dữ xui cò nhát gan.
    Tai nạn có lúc chẳng an,
    Khỏi nơi tù tội, bị oan giam cầm.
    Tin người, thương bạn phải lầm,
    Ăn rồi lấy giáo trở đâm lại mình.
    Có tánh sáng dạ thông minh,
    Bụng nghi thì có thiệt tình chẳng sai.
    Làm ăn tiền bạc có hoài,
    Ba chìm bảy nổi đổi thay gia đình.
    Anh em chung lộn bất bình,
    Ở gần xích mích, trọng khinh chẳng hòa.
    Hai dòng anh em, mẹ cha.
    Không thì chồng vợ đôi ba đổi dời.
    Biết điều phải quấy ở đời,
    Ít ai giận ghét, nhiều người thương ta.
    Tâm tánh lòng dạ hải hà,
    Anh em thiếu sức thì ta giúp liền.

    Tuổi Bính Thìn sanh 1916 và 1976

    Bính Thìn cung Khảm, mạng Thổ,
    Trực Kiên để gác đòn dong, thả đòn tay,
    Cung Phi dùng cất nhà, xây hướng,
    Sanh 1916, cung phi: Nam cung Chấn, Nữ cung Chấn
    Sanh 1976, cung phi: Nam cung Càn, Nữ cung Ly.


    Bính Thìn cung Khảm sanh ra,
    Mạng Thổ cát trắng thiệt là tốt thay.
    Mùa Hạ mà đặng sanh thai,
    Giàu nghèo cũng sướng, guốc giày nhổn nhan.
    Mùa Xuân sanh tuổi thiếp chàng,
    Trai thì cực nhọc, gái càng khổ thân.
    Anh em thiếu sức ân cần,
    Thấy nghèo giúp đỡ nhiều lần phụ ơn.
    Tuổi đầu cách trở tình dương,
    Nhiều nơi nói cưới như đờn đứt dây.
    Không thời chồng vợ đổi xây,
    Anh em, cha mẹ ta nay hai dòng.
    Số mạng tật bệnh đề phòng,
    Lỗi sanh bệnh có ở trong thân hình.
    Người ngay phải mắc oan tình,
    Giam cầm là nhẹ nghi mình lòng gian.
    Phước đức lớn lắm mới an,
    Không thời chết hụt chết oan đã rồi.
    Giận ai nói dữ một hồi,
    Không lòng độc ác giận rồi bỏ qua.
    Anh em cha mẹ chẳng hòa,
    Cô bác có của thì ta không màng.
    Nhiều lớp nhà cửa chẳng an.
    Trung niên có của ra tan mấy lần.
    Hậu vận mới đặng an thân,
    Lập nên gia thất hưởng phần về sau.

    Tuổi Đinh Tỵ sanh 1917 và 1977

    Đinh Tỵ cung Khôn, mạng Thổ,
    Trực Trừ để gác đòn dong, thả đòn tay,
    Cung Phi dùng cất nhà, xây hướng,
    Sanh 1917, cung phi: Nam cung Khôn, Nữ cung Tốn
    Sanh 1977, cung phi: Nam cung Khôn, Nữ cung Khảm.


    Đinh Tỵ mạng Thổ cung Khôn,
    Là đất cát trắng họ đồn chẳng sai.
    Mùa Hạ mà đặng sanh thai,
    Như tiên giáng thế xuống rày nhân gian.
    Thu, Đông Hưu Tù chẳng an,
    Mùa Xuân, Mộc khắc thiếp chàng cực thân.
    Lỗi sanh cha mẹ chẳng gần,
    Ly hương tổ quán tại phần số ta.
    Vợ chồng gặp gỡ xứ xa,
    Tánh tình ăn nói ai mà chẳng thương.
    Thấy ai thất nghiệp lỡ đường,
    Tới mà than vãn thì thương giúp liền.
    Nhiều lúc làm có của tiền,
    Cũng bị tan rả chẳng yên đặng cầm.
    Tai nạn nguy hiểm âm thầm,
    Khỏi bị chết hụt giam cầm bắt đi.
    Ở cho ngay thẳng lo chi,
    Rủi bị tai nạn khỏi thì không sao.
    Tiền vận số phải lao đao,
    Hậu vận tọa hưởng sang giàu an thân.
    Anh em thiếu sức ân cần,
    Bạc tiền trợ giúp nhiều lần chẳng sai.
    Đặng rồi phản phúc theo tay,
    Khi ta có việc không ai giúp dùm.

    Tuổi Mậu Ngọ sanh 1918 và 1978

    Mậu Ngọ cung Chấn, mạng Hỏa,
    Thành để gác đòn dong, thả đòn tay,
    Cung Phi dùng cất nhà, xây hướng,
    Sanh 1918, cung phi: Nam cung Khảm, Nữ cung Cấn
    Sanh 1978, cung phi: Nam cung Tốn, Nữ cung Khôn.


    Mậu Ngọ mạng Hỏa, Chấn cung,
    Lửa trời sáng chói soi cùng khắp nơi.
    Xuân, Hạ sanh đặng gặp thời,
    Thong thả sung sướng an nơi thanh nhàn.
    Thu, Đông sanh gái là nàng,
    Gia đình lo lắng sanh chàng cực thân.
    Anh em xa cách ân cần,
    Vắng mặt thương nhớ, ở gần chẳng yên.
    Nữ nhân tướng mạng chẳng hiền,
    Gặp chồng mạng nhỏ cầm quyền ngoài trong.
    Anh em, cha mẹ hai dòng,
    Không thì chồng vợ lòng thòng đôi ba.
    Thấy ai nghèo khổ xót xa,
    Bạc tiền giúp đỡ sau mà phản ngay.
    Làm ăn tiền bạc có hoài,
    Không đặng giàu lớn cũng rày bậc trung.
    Giận ai nói dữ làm hung,
    Cũng như Quan Đế Huê Dung tha Tào.
    Tánh người trí thức rất cao,
    Hồ nghi thì có ai sao biết liền.
    Số tuổi sau có đất điền,
    Ruộng vườn mua sắm của tiền làm ra.
    Tuổi muộn sau trở về già,
    Lập nên gia thất cửa nhà ở an.

    Tuổi Kỷ Mùi sanh 1919 và 1979

    Kỷ Mùi cung Tốn, mạng Hỏa,
    Trực Thâu để gác đòn dong, thả đòn tay,
    Cung Phi dùng cất nhà, xây hướng,
    Sanh 1919, cung phi: Nam cung Ly, Nữ cung Càn
    Sanh 1979, cung phi: Nam cung Chấn, Nữ cung Chấn.


    Kỷ Mùi cung Tốn tuổi ta,
    Mạng Hỏa là lửa ở mà thượng thiên.
    Trai anh hùng, gái thuyền quyên,
    Xuân, Hạ sanh đặng như tiên xuống trần.
    Thu, Đông lỗi số cực thân,
    Nghèo giàu cũng khổ tảo tần lo âu.
    Tình duyên lỡ dở lần đầu,
    Nhiều chỗ nói cười, ngỏ bầu bỏ qua.
    Vợ chồng gặp gở xứ xa,
    Cách nơi thôn xã mới là an thân.
    Anh em, quyến thuộc hương lân,
    Tánh tình ăn ở xa gần cũng thương.
    Số này lòng dạ hiền lương,
    Ít ai bạo ngược Sở vương với Tần.
    Mạng phải chết hụt mấy lần,
    Nhẹ thì bị bắt giam cầm chẳng an.
    Tiền bạc làm có rả tan,
    Nhà cửa dời đổi lang thang mấy lần.
    Tuổi muộn số mới an thân,
    Trung niên lo tảo, chạy tần chưa nên.
    Ra dàng thân kẻ bề trên,
    Chơi cùng bạn hữu chẳng bền phản ngay.
    Làm ăn tiền bạc có hoài,
    Nhiều nghề biết đặng ít ai dám bì.

    Tuổi Canh Thân sanh 1920 và 1980

    Canh Thân cung Khôn, mạng Mộc,
    Trực Trừ để gác đòn dong, thả đòn tay,
    Cung Phi dùng cất nhà, xây hướng,
    Sanh 1920, cung phi: Nam cung Cấn, Nữ cung Đoài
    Sanh 1980, cung phi: Nam cung Khôn, Nữ cung Tốn.


    Canh Thân cung Khôn tuổi chàng,
    Mạng Mộc cây lựu rõ ràng đá xanh.
    Hạ, Thu lỗi số bất thành,
    Nữ nhân tướng mạng quyền hành gia trung.
    Nam nhân sanh đặng Đông, Xuân,
    Hai mùa Vượng Tướng thung dung thanh nhàn.
    Số tuổi chết hụt chết oan,
    Không thì tật bệnh vương mang giam cầm.
    Rán ở ngay thẳng tu tâm,
    Chớ ở gian xảo thánh thần ghét ta.
    Canh Thân tuổi gặp đàn bà,
    Có chồng mạng nhỏ thì ta cầm quyền.
    Nam nữ sang số chẳng hiền,
    Vợ chồng cũng thế, nợ duyên đổi dời.
    Ít kẻ chồng vợ một đời,
    Nếu mà ở đặng, chịu thời đắng cay.
    Tiền vận nhà cửa đổi thay,
    Nhiều lúc làm khá khiến rày cũng tan.
    Hậu vạn tuổi mới đặng an,
    Gia đình bền vững chớ than, chớ phiền.
    Giận ai nói dữ lòng hiền,
    Biết ý năn nỉ có tiền cũng đưa.
    Ai mà dịu ngọt thì ưa,
    Vật thực chia sớt, đem đưa cho người.

    Tuổi Tân Dậu sanh 1921 và 1981

    Tân Dậu cung Càn, mạng Mộc,
    Trực Mãn để gác đòn dong, thả đòn tay,
    Cung Phi dùng cất nhà, xây hướng,
    Sanh 1921, cung phi: Nam cung Đoài, Nữ cung Cấn
    Sanh 1981, cung phi: Nam cung Khảm, Nữ cung Cấn.


    Tân Dậu mạng Mộc, cung Càn,
    Cây lựu kẻ đá mọc tàng chẳng sai.
    Đông, Xuân mà đặng sanh thai,
    Trọn đời thong thả đặng nay thanh nhàn.
    Hạ, Thu sanh thiếp với chàng,
    Giàu nghèo có của muôn ngàn cũng lo.
    Anh em thiếu sức hay lo,
    Bạc tiền trợ giúp đem cho ăn hoài.
    Khỏi miệng phản phúc theo tay,
    Làm ơn măc oán kể ai ra gì.
    Thiếu nợ hỏi tới sân si,
    Hết giận năn nỉ có thì cũng đưa.
    Vợ chồng lỡ dở duyên xưa,
    Nhiều chỗ coi nói, chẳng vừa bỏ qua.
    Tân Dậu tâm tánh thật thà,
    Gặp ai nói dữ thì ta nhịn liền.
    Nhiều lúc làm có của tiền,
    Cũng đều tan ra chẳng yên khó cầm.
    Phải phòng tai nạn âm thầm,
    Có lúc té nặng, thân lâm tật nguyền.
    Tiền vận nhà cửa chẳng yên,
    Cất sửa dời đổi hao tiền chẳng an.
    Hậu vận đặng hưởng giàu sang,
    Gia đình tạo lập ở an lâu dài.

    Tuổi Nhâm Tuất sanh 1922 và 1982

    Nhâm Tuất cung Đoài, mạng Thủy,
    Trực Phá để gác đòn dong, thả đòn tay,
    Cung Phi dùng cất nhà, xây hướng,
    Sanh 1922, cung phi: Nam cung, Càn Nữ cung Ly
    Sanh 1982, cung phi: Nam cung Ly, Nữ cung Càn.


    Nhâm Tuất mạng Thủy cung Đoài,
    Nước ở biển lớn chảy hoài mênh mông.
    Tuổi sanh gặp mùa Thu, Đông,
    Mạng đặng sung sướng ở không chơi hoài.
    Thìn, Tuất, Sửu, Mùi khắc ngay,
    Dần, Mẹo sáu tháng đắng cay vô hồi.
    Tưởng đâu chết hụt đã rồi,
    Nhờ Trời Phật độ thuở hồi ấu niên,
    Lớn lên phải giữ, phải kiên,
    Số ta té nặng tật nguyền chẳng sai.
    Vô phần chơi bạn lâu dài,
    Thương người giúp đỡ kể ai ra gì.
    Có lúc ta bị lâm nguy,
    Thấy thời lánh mặt giả thì ngó lơ.
    Nữ nhân duyên nợ ước mơ,
    Nằm trong phòng vắng đợi chờ đôi ba.
    Nam nhân ít kẻ thật thà,
    Nhiều người sang số, tuổi ta hai dòng.
    Quyền tước, thầy thợ mới xong,
    Nhiều nghề khéo léo ở trong thân mình,
    Tiền vận phải chịu linh đinh,
    Nhà cửa nhiều lớp kinh dinh đổi dời.
    Hậu vận mới đặng an nơi,
    Lập nên cơ nghiệp ở thời bền lâu.

    Tuổi Quý Hợi sanh 1923 và 1983

    Quý Hợi cung Cấn, mạng Thủy.
    Trực Nguy để gác đòn dong, thả đòn tay,
    Cung Phi dùng cất nhà, xây hướng,
    Sanh 1923, cung phi: Nam cung Khôn, Nữ cung Khảm
    Sanh 1983, cung phi: Nam cung Cấn, Nữ cung Đoài.


    Quý Hợi cung Cấn rõ ràng,
    Mạng Thủy nước biển chảy tràn vào sông.
    Tuổi sanh gặp mùa Thu, Đông.
    Thanh nhàn thong thả gái đồng như trai.
    Xuân, Hạ mà bị sanh thai,
    Nghèo giàu mệt trí, ít ai thanh nhàn.
    Tưởng đâu chết hụt, thác oan,
    Mạng lớn qua khỏi vương mang tật nguyền.
    Vợ chồng xung khắc chẳng yên,
    Có rồi muốn nữa, lưỡng biên gia đình.
    Anh em xung khắc bất bình,
    Thấy nghèo giúp đỡ thiệt tình thương nhau.
    Ở gần ai có ốm đau,
    Nghe tin nguy cấp mau mau tới liền.
    Miệng nói dữ nhưng lòng hiền,
    Biết người phản phúc có tiền cũng đưa.
    Trung niên tài lộc có thừa,
    Như thể nước đá bị mưa tan lần.
    Lắm lúc buôn tảo, bán tần.
    Nhà cửa dời đổi nhiều lần chẳng an.
    Nhiều nghề biết đặng vẹn toàn.
    Tánh tình vui vẻ xóm làng mến thương.
    Thi ân tích đức cho thường,
    Phật Trời dòm ngó gia đường sẽ nên.


     

    Số mệnh đời người qua từng tuổi ,con người trung quy lại cũng do ý trời đã định sẵn , chỉ còn phụ thuộc vào âm đức của bản thân cố gắng , cộng với âm đức của ông bà tổ tiên để lại ,sẽ quyết định thêm sang hèn , ngoài ra còn cộng thêm yếu tố : thiên địa nhân , có nghĩa là trời , là thiên địa là nơi ta ở có phong thủy tốt hay sấu , nhân là yếu tố con người có thực sự hướng thiện và hành thiện hay không , có xuất phát từ tâm thì với nhận được thiên khí và địa khí tốt , với mong phát tích được sự sang hèn thịnh vượng nhiều đời ..suy cho cùng cổ nhân xưa cũng đã dặn hậu thế : ở đời phúc họa do mình , tu nhân tích đức trời dành phần cho , gặp nguy sẽ được cứa ngay , gặp họa sẽ được phù trì qua cơn .người đời xem đó mà hành thiện với mong nhận được kế quả tốt của cuộc đời này mà tạo hóa sẽ ban cho mỗi người ..

    phong thủy Đông Dương :